4. Nhuộm Thâm ([You must be registered and logged in to see this link.])Truyền
thuyết kể rằng, khi quân Mã Viện đuổi hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, tới
một làng, quân Mã chợt hoa mắt vì thấy những sào vải đen phơi dọc ngang
không biết lối nào mà lần. Quân Mã sợ rơi vào trận đồ bát quái của hai
bà, đành quay ra tìm đường khác. Ngôi làng trong truyền thuyết khiến
quân Mã Viện phải hốt hoảng ấy chính là Huê Cầu, thuộc tổng Huê Cầu,
huyện Tế Giang (sau thuộc Văn Giang), phủ Thuận An (sau đổi phủ Thuận
Thành), trấn Kinh Bắc, nay thuộc thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Mỹ
Văn, tỉnh Hưng Yên. Còn những sào vải đen khiến quân giặc tưởng là "trận
đồ bát quái" kia, chính là nghề tổ của làng - nghề nhuộm thâm.
Ai lên Đồng Tỉnh,
Huê Cầu Đồng Tỉnh bán thuốc,
Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền...,
Nói
quanh nói quẩn những Đồng Tỉnh, Huê Cầu, Thanh Lâm, thì chẳng qua cũng
là một lời tỏ tình, kiểu Hôm qua tát nước đầu đình..., áo nhuộm thâm là
cái cớ, nhưng cái cớ ấy từng là một phần không thiếu được trong đời sống
người nông dân Việt Nam.
Trong số gần 500 làng nghề từng tồn tại
ở đồng bằng sông Hồng, làng ươm tơ dệt vải có lẽ là làng nghề đông
nhất. Dọc theo các con sông, các bãi bồi đều là những bãi dâu rười rượi,
và nhất định phía trong những bãi dâu ấy có lanh canh tiếng thoi đưa
cửi dệt. Nhưng trừ Huê Cầu ra, không thấy nói đến làng nào có nghề
nhuộm. Các cụ bà Nguyễn Thị Thoan (làng dệt Đại Mỗ), Nguyễn Thị Mùi
(làng dệt La Khê) đều cho biết làng chỉ dệt vải rồi mang vải mộc ra chợ
Đình (chợ đình làng) hoặc chợ Hà Đông bán cho lái buôn. Nơi sẽ nhuộm tất
cả thứ vải lụa ấy rồi đem bày bán chính là phường Hàng Đào nơi Kẻ Chợ.
Hàng Đào nổi tiếng về nhuộm điều, các mầu đỏ, hồng, hoa đào... Đến thế
kỷ 18, trong Thượng Kinh phong vật chí ghi chép lại thì: "Phường Hàng
Đào làm nghề nhuộm mầu: mầu trắng như tuyết, mầu đỏ như tiết, mầu đen
như mực... Mầu vàng là chính. Màu tạp thì có mầu hoa hiên, thiên thanh,
hoa đào, cánh trả, quan lục, không mầu nào giống mầu nào". Rồi thì người
Hàng Đào cũng bắt đầu "chuyên môn hóa" công việc, theo nhà nghiên cứu
Chu Quang Trứ trong Tìm hiểu làng nghề thủ công điêu khắc cổ truyền,
Hàng Đào chỉ giữ lại việc nhuộm điều, chuội trắng nhờ bên Cầu Gỗ, còn
lại giao cho Hàng Thợ Nhuộm... (đều thuộc Hà Nội). Duy có một thức nhuộm
mà phường Hàng Đào không khi nào tự làm được, ấy là nhuộm thâm (đen).
Bởi nhuộm thâm thời ấy, tất cả bằng mầu thực bắt buộc phải có... bùn,
người Hàng Đào phải giao vải mộc về nơi khác, và Huê Cầu chính là nơi
nổi tiếng về cái thức nhuộm rất dân dã và cũng rất lạ lùng này. Cứ theo
truyền thuyết thì nghề nhuộm thâm ở Huê Cầu cũng có ngót nghét 2.000 năm
!
Người Huê Cầu nhún nhường lắm về nghề tổ của làng mình: Ruộm
(nhuộm) thâm chẳng hết bao nhiêu/Hết một nắm đất với niêu lá sòi. Nhưng
cái "chẳng hết bao nhiêu" ấy kể ra thì những nhà nhuộm bây giờ nghe cũng
phức tạp: Đầu tiên phải nhuộm gụ bằng củ nâu, đun trong nước lá sòi
(một loại cây thân gỗ mọc hoang), có nơi dùng lá bàng, hoặc hạt dền như
trong câu ca dao, sau đó lấy bùn trát kín, việc trát bùn phải được làm
đi làm lại vài lần. Sau khi nhuộm xong, tấm vải không đen nhánh, không
đen bóng, mà có mầu đen thâm, bàng bạc, song hầu như không bao giờ phai.
Các khe của sợi vải sau khi nhuộm sẽ được lấp kín, tấm vải cực kỳ dai
và bền, dày dặn nhưng mặc lại không nóng, không bí. Chuyện rằng có những
người mẹ nghèo, đêm ngủ dùng váy thâm lót cho con, tấm váy này có tác
dụng như một tạ giấy thời hiện đại, chính được may bằng loại nái (một
loại vải dày) nhuộm bùn. Trước đây, những mầu sắc rực rỡ thường chỉ được
dùng trong các ngày lễ hội.
Trong đời sống thường ngày, nhất là
đối với người lao động, mầu vải thâm vẫn là gam mầu chính. Một anh
chàng nhắn gửi "ai" đó: Mua anh một áo vải thâm hạt dền. Sau này khi
Nguyễn Đình Thi viết về Đất nước Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn,
không biết có phải là tấm áo đó không ? Và không chỉ thế, người Huê Cầu
còn tự hào vì nghề nhuộm của mình đã ra khỏi làng, vào cả những nơi chốn
cao sang.
Theo gia phả họ Cao, ở làng có cụ Cao Quý Công từng được triều đình nhà Nguyễn vời vào kinh đô Huế nhuộm vải vóc cho hoàng tộc.
Nhưng
đấy là chuyện của những thế kỷ trước. Bây giờ đến Huê Cầu hỏi làng
nghề, người trẻ thì gãi đầu cười trừ. Mấy bà bán hàng đầu chợ nói rằng
làm gì còn ai nhuộm. Cách Huê Cầu khá xa (về thị xã Hải Dương rồi đi
thêm chừng 10 km nữa), ở huyện Nam Sách còn chợ Thanh Lâm. Không ai hiểu
tại sao cái áo nhuộm thâm ở Huê Cầu lại có thể lưu lạc đến một cái chợ
cách nó đến 40-50 km, xưa kia đấy là một khoảng cách đáng kể. Hóa ra,
chợ Thanh Lâm trong câu ca xưa không phải ở Nam Sách, Hải Dương. Theo
bác Tô Xuân Thạch, nhà giáo về hưu đã bỏ nhiều năm tìm lục lại sử sách
về làng, đó là chợ Thanh Lâm (hay Cách Lâm) nằm ở đầu làng Lê Cao bên
cạnh Huê Cầu. Khi quân Hán đô hộ Việt Nam, khu gia binh của thành Luy
Lâu được đặt trên đất Xuân Cầu, hình thành nên khu chợ gần đấy. Chợ
Thanh Lâm này còn có ngôi quán mang tên Hàng Vải, đây chính là nơi bán
sản phẩm nhuộm đặc trưng của làng.Nay thì chợ Thanh Lâm ấy cũng không
còn, khi dân làng đào đất làm lò gạch phát hiện nhiều nền phế tích xưa,
trong đó có cả nền quán Hàng .
Hàng Vải mất, Thanh Lâm cũng chẳng
còn, làng mất nghề, chỉ còn lại độc cái tên từng ghi dấu vào ca dao một
thuở, dân làng chủ yếu chạy chợ và đi làm thuê ngoài Hà Nội. Mấy năm
nay, Huê Cầu cũng muốn mở lại hội làng, nhưng bàn đi bàn lại chẳng biết
nên tổ chức thế nào. Vì đình chùa miếu mạo không còn, nghề tổ cũng mất
(ngoài nghề nhuộm, Huê Cầu còn có đặc sản bánh mỡ song cũng đã thất
truyền), thế hệ trẻ gần như không biết chút gì về quá khứ xưa. Bác Thạch
ngậm ngùi nói một câu nghe chừng rất đúng với Huê Cầu bây giờ: Thế mới
hiểu những giá trị truyền thống có ý nghĩa như thế nào trong đời sống
hiện đại.
Làng Huê Cầu không còn ai biết nghề nhuộm thâm, nhưng đất
dệt xứ bắc vẫn còn. Làng Nội Duệ (Bắc Ninh) có bà Năm nay đã ngoại 80 là
người sót lại cuối cùng của làng chuyên sống bằng nghề nhuộm thuê. Tay
bà vài hôm lại có một mầu: khi xanh, khi đỏ, lúc tím, lúc lại vàng. Đấy
là mầu của thuốc nhuộm, bây giờ là thuốc hóa học, nhuộm xong bà lại phải
dùng thuốc hóa học khác để rửa phòng thuốc nhuộm ăn vào da. Trước kia
nhuộm màu tự nhiên bà không phải lo điều ấy, mà vải không phai, bây giờ
thuốc hiện đại, mầu phai, bà thắc mắc lắm. Bây giờ cũng không ai thuê bà
nhuộm thâm nữa, nhưng nếu bạn muốn, bà vẫn sẵn sàng.
5. Lãnh Mỹ A (Tân Châu-An Giang)(Theo báo Điện tử Đại học An Giang)Lãnh
Mỹ A- là một thương hiệu nổi tiếng của lụa Tân Châu. Quê hương xứ lụa
Tân Châu là một làng nghề một thời vang bóng nhưng nay đã mai một rất
nhiều. Những hàng dâu bát ngát ven đường, những khung cửi cất lên những
tiếng dệt vải trong những đêm trăng ….tất cả tạo nên một bức tranh hoành
tráng về thời hoàng kim của lụa Tân Châu.
Ca dao Nam Bộ có câu:
"Trai nào bằng trai hai huyện
Tháng ngày dệt lụa trồng dâu
Gái nào thảo bằng gái Tân Châu
Thờ cha nuôi mẹ quản đâu nhọc nhằn"
[/i]
Nói
về nghề tơ tằm, chúng ta thấy rằng đây là một trong những nghề thủ công
truyền thống nổi tiếng ở An Giang. Nhìn lại lịch sử, khi chiếm được Nam
Kỳ, một trong những nghề thủ công nghiệp mà Thực Dân Pháp quan tâm khai
thác là nghề dâu tằm. Pháp chọn Tân Châu làm trọng điểm để thực hiện
các biện pháp phát triển nghề tằm tơ cả Nam Kỳ nhằm cung cấp tơ tằm cho
chính quốc. Chúng cho thành lập ở Tân châu một Viện tằm tơ (tháng
7/1908). Vì thế không có gì ngạc nhiên khi Tân Châu cũng là trung tâm
sản xuất và buôn bán tằm tơ nổi tiếng ở Nam Kỳ và Campuchia lúc bấy giờ.
Chính nhờ có Viện này mà tằm tơ được tuyển chọn những giống tốt cho
năng suất và chất lượng cao để tiến hành nhân giống, đồng thời cũng tiến
hành phổ biến kỹ thuật đến người dân trong vùng. Song song đó, Chính
quyền lúc bấy giờ cũng đã miễn thuế đất cho diện tích trồng dâu và những
chính sách hỗ trợ khác nữa. Vùng Tân Châu là vùng đất cù lao có đất
đai, khí hậu thích hợp cho việc trồng dâu nuôi tằm. Năng suất trồng dâu
và chất lượng tơ nơi đây tốt hơn những nơi khác. Lúc đầu nông dân nuôi
những giống kén vàng nhưng sau đó với đà phát triển đã ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ nên nông dân đã chuyển sang nuôi những giống tằm
lưỡng hệ trắng và các cặp lai của nó. Những giống tằm này cho năng suất
cũng như chất lượng kén và tơ cao hơn. Tuy nhiên việc nuôi tằm rất cực
nhọc nhất là vào thời điểm tằm ăn lên.
Sau khi xử lý kén là đến
giai đoạn ươm tơ. Trước đây nghề ươm tơ còn đơn giản theo lối cổ truyền
như: kén được cho vào nồi nước sôi, sau đó kéo mối tơ và gắn vào bánh xa
quay, người thợ ươm tơ khuấy đôi đũa liên hồi vào nồi nấu kén đồng thời
tay cũng quay đều đầu bánh xe để cuộn tròn các sợi tơ. Quay mãi cho đến
khi còn lại xác con tằm. Về sau nông dân đã cải tiến khâu ươm tơ sử
dụng xa ươm tơ bông sen và cơ giới hoá để nâng cao năng suất và chất
lượng tơ. Tơ thô sau đó được tháo ra từ các bó để se lại thành sợi to.
Rồi được dệt lại thành những tấm lụa.
Lụa Tân Châu nổi tiếng với
thương hiệu Lãnh Mỹ A là một trong những loại mặt hàng “độc nhất vô nhị”
mà bất kỳ người phụ nữ nào ở thế kỷ XX cũng đều mơ ước được mặc những
chiết quần lãnh đầy nét quyến rũ này. Lãnh Mỹ A là một loại lụa dệt bằng
tơ tằm, được gia công bằng những công thức rất độc đáo. Nó không có
nhiều màu sắc như những loại vải hiện nay, nó chỉ có một màu đen huyền
bóng loáng và không bao giờ phai màu. Điều đặc biệt và cũng là nét đặc
trưng cho sản phẩm này chính là khả năng không co giãn và không hút ẩm
của nó. Lãnh Mỹ A mặc vào mùa hè thì rất thoáng mát, mặt vào mùa đông
thì ấm áp lạ thường . Dấu hiệu dễ nhận thấy được của những người thợ
nhuộm lụa Tân Châu là đôi bàn tay bị đen do tiếp xúc với phẩm nhuộm.
Nhưng điều đặc biệt ở đây là phẩm nhuộm không phải là những hoá chất
được pha chế như hiện nay, nó là nhựa của một loại quả gọi là quả mặc
nưa. Loại quả này có nguồn gốc từ Campuchia được những người thợ nhuộm
mua quả chở về (mùa thu hoạch quả mặc nưa bắt đầu vào khoảng tháng 5
tháng 6). Sau đó người dân nơi đây tự trồng lấy, không ngờ loại cây này
lại rất thích hợp với vùng đất Tân Châu.
Cây mặc nưa là một loại
cây gỗ có màu đen, thân già thì xù xì do có những mảng da bong ra, lá
mỏng, chùm quả tròn trĩnh gần giống như quả nhản đung đưa trước gió.
Những quả mặc nưa sau khi thu hái đem về được phân loại lớn nhỏ khác
nhau và đặc biệt là loại bỏ những quả chín vì không còn nhựa nữa. Trái
mặc nưa được đem về giã nát bằng cối đá hoặc bằng máy nghiền sau đó hoà
vào nước tạo nên một dung dịch có màu vàng rất đẹp, màu này sẽ chuyển
sang màu đen huyền khi tiếp xúc với không khí và nhiệt độ. Dung dịch này
được gạn bỏ bả và được dùng để nhuộm lụa Tân Châu.
Lụa
sau khi nhuộm xong được phơi trong nắng, những bãi phơi lãnh rất rộng
được trải bằng như tàu lá dừa hoặc trồng cỏ. Có những sân phơi làm những
cộc phơi những cây hàng dài 20 mét. Lụa sau khi dệt xong thành từng cây
màu trắng có những hoa văn đơn giản nhưng rất phù hợp với màu sắc đen
huyền của lãnh. Những tấm lụa được nhúng vào trong dung dịch nước mặc
nưa sau đó vắt kỹ đem ra nắng phơi, một ngày có thể nhuộm nhiều lần như
thế rồi phơi. Cái đen huyền của nhựa mặc nưa thấm vào từng sợi tơ. Công
việc này lặp đi lặp lại nhiều ngày nếu như thời tiết bình thường thì
khoảng 40-45 ngày thì hoàn tất công đoạn nhuộm. Trong khi đó khoảng 5
đến 7 ngày người thợ nhuộm phải đem những cây hàng (đơn vị tính cho một
cây lụa) đi nện (công đoạn bắt buộc khi gia công Lãnh Mỹ A, bởi lẽ sợi
vải phải chịu tác dụng lực cơ học lên bề mặt mới tạo độ bóng bền cho
lãnh). Lãnh sau khi phơi khô được quấn lại thành cuộn tròn và đem đi
nện. Lúc trước những người thợ nện dùng những cây búa gỗ nện, những sau
này họ sử dụng những máy nện hàng, những tiếng nện hàng đêm khuya tạo
nên nét đẹp của vùng quê xứ lụa. Thế cũng chưa hết, lụa còn trải qua các
giai đoạn hồ, xả nữa mới tạo được một tấm lụa Mỹ A tuyệt đẹp mang một
màu đen huyền bóng loáng.
Nghề trồng dâu nuôi tằm có lẽ cực thịnh
nhất vào giai đoạn 1935-1965. Từ năm 1976 đến nay nghề trồng dâu nuôi
tằm chỉ còn rải rác ở một số nơi. Công ty tơ lụa An Giang có trụ sở đóng
ở Tân Châu sau một thời gian hoạt động đã đóng cửa do sản phẩm làm ra
chi phí cao không cạnh tranh được với hàng vải ngoại nhập, hàng may mặc
đã tràn ngập thị trường với giá rẻ, chính vì thế các hộ trồng dâu nuôi
tằm đã chuyển sang làm những nghề khác.
Giờ đây lụa Tân Châu đã
không còn như trước nữa, những cảnh phơi lụa trên những cánh đồng, cảnh
tất bật khi mưa đến, những câu hát vang cả khúc sông của những cô thiếu
nữ xả lụạ chỉ còn trong ký ức. Nhưng những gì lịch sử đã ghi lại là mãi
mãi.
Tài liệu tham khảoLê Minh Tùng. 2003. Tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp. Trong Địa Chí An Giang tập 1
An Giang: UBND Tỉnh An Giang:459-461.
6. Nghề dệt của người Gia Rai([You must be registered and logged in to see this link.])Nghề
dệt là một nghề thủ công tương đối đặc sắc của người Gia-rai. Để dệt
những bộ y phục, người Gia-rai đã biết trồng bông để tạo nguyên liệu,
đây là một loại cây đã được trồng lâu đời trong các buôn làng người
Gia-rai.
Theo truyền thuyết dân gian Gia-rai, sau khi đã làm ra
thế giới, muôn loài và con người, yang trời Kơ-dei tìm người thay mình
quản mặt đất. Bà Tung là một trong những người được yang chọn lựa. Bà
được phân công vừa cai quản thế giới của các hồn người chết, vừa phải
quyết định số phận của tất cả mọi, người sống trên mặt đất. Bà dùng bột
nặn thành hình từng đứa trẻ rồi cho nó lên mặt đất nhập vào những phụ nữ
có thai. Mỗi đứa trẻ sắp sửa được đa đi đầu thai đều được bà Tung định
sẵn cho nó một số phận.
Trong nhà bà Tung có một khung dệt. Suốt
ngày bà ngồi luồn đừng sợi chỉ để dệt một tấm vải dài. Tấm vải đó chính
là cuộc đời của tất cả những con người trên mặt đất. Mỗi sợi chỉ là số
phận của từng người. Cho nên các sợi chỉ cũng có những màu sắc khác
nhau.
Chất liệu tạo ra màu sắc dùng để nhuộm sợi được người
Gia-rai lấy từ thực vật có sẵn trong môi trường sống của họ. Màu sắc là
một thành tố hữu cơ của bố cục, tham gia vào bố cục để tạo nên chỉnh thể
của trang phục. Người Gia-rai có cả một bảng màu tự nhiên thật phong
phú bao gồm các màu: đen, đỏ, vàng, xanh, mỗi màu được chế từ một loại
thực vật. Việc nhuộm sợi hoàn tất từ trước khi dệt vải. Sợi được chế tác
từ quả cây bông và màu tự nhiên của nó bao giờ cũng là trắng, để tạo ra
các màu sắc khác là cả một quá trình kinh nghiệm của người Gia-rai. Để
có màu đen (htăm) hay màu xanh thẫm, họ dùng cây chàm. Các bước thao tác
được tiến hành như sau: đầu tiên người Gia-rai đi bắt một loại ốc suối
có tên là bràng đem giã nhỏ, đổ nước vào lọc, lấy thứ nước đó đổ vào
ché ngâm khoảng một tháng. Tiếp theo, dùng đọt chuối, vỏ chuối và rễ cây
kha krông, kha chót bỏ chung vào cối giã cho thật kỹ, trộn tất cả với
sợi trắng tự nhiên, rồi bỏ vào ché (vò sành) ngâm. Khi sợi đã ngả màu
đen thì đem phơi khô. Nước nhuộm còn lại được cất giữ trong ché và khi
cầnlại có thể sử dụng với các bước như vừa mô tả.
So sánh với
người Ba-na (thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-khơme dân tộc sống cận cư với người
Gia-rai, có nhiều nét văn hóa tương đồng, trong đó có kỹ thuật nhuộm
sợi) thì việc tạo mầu đen cũng gần giống như người Gia-rai, có khác
chăng chỉ là tên gọi theo ngôn ngữ dân tộc. Người Ba-na gọi mầu đen là
găm, còn lá cây chàm nhuộm mầu đen là tơ ruum, về kỹ thuật làm ra mầu
thì tương tự như người Gia-rai. Các màu còn lại như đỏ, vàng, xanh mà
người Ba-na tọa ra không khác so với cách của người Gia-rai.
Mầu
đỏ (m’yah) trong trang phục của người Gia-rai chiếm một tỉ lệ khá đậm
đặc. Để tạo ra màu đỏ, người Gia-rai chsử dụng “một loại quả không có
lông” là nguyên liệu chính, ngoài ra còn kết hợp với vỏ cây tơnung.
Người Gia-rai ở vùng Chư Pah còn tạo ra màu đỏ bằng cách dùng một loại
cây có tên là nhau trộn với mỡ dê rồi đem đun thật sôi, sau đó lấy sợi
tự nhiên mầu trắng nhúng vào đó, nhấc ra và nhúng vào loại nước xa bon
(một loại thuốc mầu của người Lào). Thao tác đó được lặp đi lặp lại vài
lần cho đến khi sợi vải có mầu đỏ tươi (thết) thì đem phơi khô.
Trong
y phục của người Gia-rai, màu vàng thường được coi như nét điểm xuyến,
tạo nên sắc thái hài hòa theo thẩm mỹ của họ. Một số hoa văn như hoa cây
mai, hoa blang (hoa gạo) dệt bằng loại sợi màu vàng. Để tạo ra màu
vàng, người Gia-rai thường dùng củ knhít (nghệ) như các nhà nghiên cứu
đã tìm hiểu. Ở vùng Gia-rai Aráp có một loài thực vật nữa được dùng để
tạo ra màu vàng nhuộm sợi. Đó là loại lá popẹ. Phụ nữ Gia-rai thường đốt
lá ấy rồi trộn với nghệ, sau đó giã nhỏ hòa với nước sôi để nhuộm. Cách
làm này tạo cho sợi có mầu vàng tươi hơn nhiều so với màu tự nhiên từ
nghệ.
Duy nhất chỉ có sợi màu xanh (miêk), theo người dệt, đây là
màu mới được du nhập chưa lâu và chất tạo màu là phẩm nhuộm hóa học mua
trên thị trường, bao gồm cả màu xanh da trời lẫn màu xanh lá cây. Ưu
điể của thứ sợi được nhuộm bằng các thảo mộc tự nhiên là sợi giữ được
mầu tươi rất lâu, qua năm tháng thứ mầu đó không hề bị phai, bị nhạt. Từ
các sợi với đủ thứ mầu sắc, người Gia-rai với bộ khung dệt bằng tay đã
tạo ra trang phục của mình như: váy, khố, áo, khăn, chăn.
Cũng
giống như một số tộc người khác ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên, người
Gia-rai dệt bằng tay với một bộ dụng cụ được các nhà dân tộc học gọi là
khung dệt kiểu Inđônêdiêng, gồm nhiều bộ phận rời nhau và chỉ khi dệt
chúng mới được liên kết lại thành một hệ thống có sự tham gia trực tiếp
của chính người thợ dệt đó, nói cách khác, “người dệt cũng là một bộ
phận của cái khung dệt”. Bộ khung dệt này, người Gia-rai gọi là mrai,
cấu tạo gồm hai đoạn nứa tròn dài khoảng 1,20m (khoóng trên và khoóng
dưới), một khoóng được áp vào lòng người dệt; một khoóng được treo cố
định ở trên cao, có thể là xà nhà, trong khi dệt. Trước khi dệt, sợi dọc
được giăng thật thẳng và thành một vòng kín, sắp xếp làm hai tầng trên
vào dưới, ngăn cách bởi một thanh gỗ gọi là chor hay chrkô. Khi luồn sợi
ngang sang để liên kết với các sợi dọc có một thanh gỗ khác dùng để dập
sợi ngang áp sát vào nhau, thanh gỗ đó gọi là prư.
Người phụ nữ
Gia-rai không dệt trên khung cửi cố định như người Thái, người Mường,
người Tày. Việc giang sợi thành một thảm chỉ dọc trước mặt người dệt
được làm từ trước, rồi người phụ nữ đó ngồi một chỗ, đan sợi chỉ ngang
qua thảm chỉ dọc đã định hình. Khi các sợi được giăng lên, cùng với sự
tham gia của các bộ phận rời trong khung dệt kiểu Inđônêdiêng nói trên,
tổng hợp lại được gọi là mrai. Khi hoàn thành một tấm vải dệt thì các bộ
phận lại trở về với vị trí rời rạc ban đầu của nó. Trong vòng kín của
sợi dọc, được xếp thành hai tầng trên vả dưới. Cách giăng sợi thành vòng
kín đã làm cho tấm vải bị giới hạn về chiều dài. Độ dài của tấm vải
chính là khoảng cách giữa hai khoóng nhân đôi (vòng kín hai tầng), độ
dài này chỉ được giới hạn trong một mức độ cho phép, vì luôn luôn phải
đảm bảo cho sợi dọc trước mặt người dệt được căng thẳng, trung bình mỗi
tấm vải dài không quá 6 mét.
Chiều dài của tấm vải bị hạn chế bởi
khoảng cách của hai khoóng nhân đôi, nhưng khổ vải thì được mở rộng
hơn. Tuy người Gia-rai dệt thủ công nhưng khổ vải rộng đạt trung bình
đến 80cm, vì tấm vải thoát khỏi sự khống chế ngặt nghèo đối với chiều
ngang và khổ vải không bị đóng khung lại trong lòng một khung cửi cố
định như kiểu dệt của người Thái, Tày, Mường, …
Người phụ nữ
Gia-rai đan sợi ngang qua các sợi dọc để tạo nên mặt vải, được diễn ra
mặt trên vòng kín của thảm dọc. Bộ khung dệt Gia-rai cho phép người dệt
một cách từ từ theo nhịp đan chậm rãi của mình. Tầng trên sau khi đã
được dệt thành mặt vải có thể hoán vị cho tầng dưới mới chỉ là những
thảm dọc, việc luân chuyển đó cứ được diễn ra suốt trong quá trình dệt.
Do việc dệt chỉ được tiến hành ở tầng trên nên ngay ở tầng này người dệt
cũng phải phân thành hai tầng nhỏ hơn, cũng một tầng trên và một tầng
dưới. Một tầng là các sợi lẻ 1, 3, 5, 7... một tầng là các sợi chẵn 2,
4, 6, 8... Hai tầng nhỏ ở mặt trên này được tuần tự và liên tục đảo vị
trí cho nhau, trên xuống dưới, dưới lên trên và ngợc lại. Sau mỗi lần
đảo, người dệt lại luồn sợi ngang qua khe hở của hai tầng vừa đảo, cứ
thế liên tục điệp sợi ngang vào sợi dọc cho thành mặt vải.
Chức
năng của bộ phận chrkô làm nhiệm vụ của việc đảo hai tầng nhỏ này, đều
đặn, trên xuống dưới, dưới lên trên. Chrkô có tác dụng giống như chiếc
go của khung dệt Việt, Mường, được người dệt nhẹ nhàng luồn qua khoảng
cách nhỏ giữa hai tầng vừa đảo, sợi ngang được nằm giữa các sợi chẵn và
lẻ của thảm dọc Bộ phận prư có tác dụng dập cho sợi ngang mới luồn áp
chặt vào sợi dọc.
Người Gia-rai không tạo hoa văn bằng kỹ thuật
in sáp ong, ghép vải màu hay thêu mà họ trực tiếp dệt hoa văn trong quá
trình dệt vải. Do kỹ thuật dệt với sợi dọc chủ yếu là màu đen, màu chàm
sẫm, được bố trí ngay những sợi màu tự nhiên – màu cơ bản như: đỏ,
vàng, trắng - để kết hợp với sợi ngang. Chủ yếu việc phối màu sắc đã
hình thành ở trong đầu và sau khi dệt kết quả sẽ có một nền vải với
những màu sắc và hoa văn theo ý muốn. Kỹ thuật dệt này bắt nguồn từ kỹ
thuật dệt luồn sợi như đan có đặc thù từ phương Nam. Nó khác hẳn với
nền vải màu nổi rõ ở phía Bắc với kỹ thuật dệt, đan chéo mũi hay thêu
lát ghép vải để tạo nên những mảng trang trí mà điển hình là các dân tộc
thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến như: Hà Nhì, Cống, Lô Lô hay dân tộc
Mông, Dao...
Bộ khung dệt và kỹ thuật của người Gia-rai có những
nhược điểm và ưu điểm nhất định, khi so sánh với các khung dệt của một
số tộc người thiểu số Ở miền núi phía Bắc như người Thái, người Mường
là những dân tộc biết cách dệt hoa văn trên khung cửi.
Nhược
điểm đầu tiên và lớn nhất của kỹ thuật dệt Gia-rai là không thể dệt
được một tấm vải dài bất kỳ theo ý muốn của mình. Tấm dệt đó chỉ có thể
giới hạn trong khoảng 5 - 6m, tương ứng với khoảng cách của hai chiếc
khoóng, vì sợi giăng theo thảm dọc và khép lại thành vòng tròn kín.
Đành
rằng dệt theo kiểu thủ công là lối dệt chậm rãi, từ từ nhưng kỹ thuật
dệt của người Gia-rai có sự phối hợp của lối đan từng nút một, làm cho
tốc độ dệt quá chậm.
Ưu điểm của kỹ thuật dệt Gia-rai, tuy bị hạn
chế về chiều dài, nhng chiều ngang của khổ vải không bị khống chế - vì
khổ vải không bị đóng khung cố định như kiểu khung của người Thái,
người Tày, nên nhiều tấm vải có khổ rộng 1m, thậm chí hơn.
7. Thổ Cẩm
(Trích bài "Hoa trần gian" Nguyễn Xuân Hiệu - Hà Phong đăng trên VietNamNet)ù
là người miền xuôi hay miền ngược, chắc ai cũng từng được nhiều lần
nghe nhắc đến áo chàm, vải thổ cẩm. Thổ cẩm với những hoa văn đẹp rực rỡ
thể hiện tâm hồn, tính cách của đồng bào dân tộc, đi vào lòng người nhẹ
nhàng như mưa bụi bay, thấm dần, thấm dần. Sắc màu đen và trắng, đỏ và
xanh... đan xen nhau bởi những bàn tay "nghệ sĩ" tài hoa và biến thành
giấc mơ có thực.
Với người Thái, các bé gái đã biết giúp mẹ xe
sợi, dệt vải, nhuộm chàm... từ khi còn nhỏ. Bóng dáng người con gái dịu
dàng, nhẫn nại, chịu thương, chịu khó ngồi dệt luôn là hình ảnh quen
thuộc từ bao đời. Vô số chàng trai đã bị hút hồn, mê mệt, say sưa khi
bắt gặp bóng dáng người em gái đang nghiêng đầu bên khung cửi, môi hồng
mím chỉ, đôi bàn tay chao thoi mềm mại như múa. "Hoa trần gian" là tấm
thổ cẩm hay chính là người em gái?
Dệt thổ cẩm, chất liệu chủ yếu sử
dụng là bông vải. Những nương bông đến mùa thu hoạch, nở bung trắng
tinh như dâng hiến. Bông thu lấy cả hạt mang về, phơi nắng thật khô, sau
đó cán bỏ hạt, kéo thành sợi, nhuộm màu, xử lý hồ bằng bột ngô nấu rồi
mới mắc hoa, đưa lên khung cửi (Lang ký).
ể
có tấm thổ cẩm lung linh màu sắc, không thể thiếu cây, quả từ thiên
nhiên dùng để "hóa" màu cho sợi. Chàm cho màu đen xanh, quả "mák phét"
cho màu đỏ tươi, củ nâu cho màu nâu, rễ cây "mạy hém" cho màu vàng...
Khi muốn có màu tím, người ta nhuộm giữa chàm và nâu. Thứ màu tím này lạ
lắm, long lanh trước ánh sáng khiến ta mơ hồ chẳng dám chắc hẳn đấy có
là màu tím hay không?
Trong các loại nguyên liệu tự nhiên dùng
pha màu nhuộm sợi, ở gần nhà và dễ lấy nhất có lẽ là "mák phét". Cây
"mák phét" thân thấp, cành la đà xoã ngang mặt đất, bông trổ vào giêng,
hai, quả chín tháng năm, tháng sáu. Lũ trẻ nghịch ngợm thường hay hái
"mák phét" chín, bôi hồng má nhau, rồi cùng bắt chước hát đối đáp như
lứa đàn anh, đàn chị. Chán trò này, chúng lại rủ nhau ngồi lên cành "mák
phét" chơi trò nhong nhong phi ngựa.
Người lớn không nỡ trách
bọn trẻ nghịch dại. Bản, mường vẫn còn nghèo lắm, thiếu chỗ cho con trẻ
chơi, nên chẳng ai nỡ lòng nào cắt ngang niềm hứng khởi, cấm lũ trẻ đang
vui. Còn bọn trẻ, chúng hét hò sung sướng, vô tư tận hưởng những khoảnh
khắc thương mến của tuổi thơ, không hề để ý đến việc "mák phét" giúp
mẹ, chị có được màu đỏ tươi rói để nhuộm sợi.
Nhưng chàm mới
chính là nền chủ đạo trong sắc màu thổ cẩm. Lá chàm mang từ nương về,
rắc thêm vôi rồi ngâm ủ cho đến khi nổi váng đỏ mới vớt ra, sau đó được
vò nát để lọc lấy bột chàm. Bột chàm đen xanh, mịn mát tay, khi nào
nhuộm đem bỏ vào chum, quấy đều thật mạnh cho đến khi bọt nổi bám quyện
vào nhau như đám trứng ếch mới thôi.
Đợi vài ngày sau, cho đến
khi nước chàm chuyển từ màu đen sang màu lá mạ thì các mẹ, các chị bắt
đầu thả sợi hoặc vải thô trắng vào trong đó để nhuộm. Dẫu có đứng từ
đằng xa, cũng ngửi được mùi chàm ngái trên tay các mẹ, các chị. Bàn tay
người lao động, xù xì, đầy những nứt nẻ dọc ngang, sau buổi nhuộm vất
vả, màu chàm lặn vào gột mãi vẫn để lại những vết đen mờ. Có nhìn thấy
thế, ta mới hiểu và biết thương chiếc áo chàm đang mặc.
Ngày
nay, rất ít người mặc trên mình chiếc áo chàm ngan ngát mùi rừng. Khoác
lên người bộ áo quần may theo lối thời trang, không biết lúc ấy còn có
ai nhớ đến chiếc áo chàm dung dị? Mỏi mắt tìm khắp các sườn non, vắng
hẳn bóng những nương chàm biếc xanh màu lam ngọc, đều tăm tắp như trải
thảm.
Thỉnh
thoảng thấy ai đó mặc chiếc áo chàm, lại gần nhìn thật kỹ, hoá ra là
được nhuộm bằng màu hoá học có sẵn. Nếu cứ thế này, thì nghề dệt, nhuộm
truyền thống của người xưa biết có còn tồn tại được đến mai sau? Không
lẽ rồi đây chỉ còn nhìn thấy những chiếc áo chàm thực thụ treo trong
Viện Bảo tàng Dân tộc học?
Lớp trẻ nói rất thẳng thừng: "Áo chàm
vừa dễ phai, vừa hắc, sắc màu lại đơn điệu. Tội gì không dùng vải dệt
công nghiệp, bền màu, nhiều mẫu mã đẹp, lại rẻ. Tiếc chi chiếc áo
chàm?". Người già trầm ngâm suy nghĩ: “Ý kiến của bọn trẻ không phải
không có lý”. Cuộc sống luôn hướng lên, không ai câu nệ, bó buộc đến mức
bắt mọi người suốt ngày phải mang trên mình chiếc áo chàm. Không thể
bắt con người suốt ngàn năm khoác trên mình thứ y phục không thay đổi.
Nhưng
nếu nghề dệt truyền thống mất đi thì không gian văn hoá từng tồn tại
xung quanh nghề dệt cũng sẽ không còn. Chính nghề dệt đã góp phần tạo
nên văn hoá "hạn khuống" (sân sàn) rất riêng biệt của người Thái. Vào
những đêm trăng sáng, bầu trời và mặt đất thênh thang gió ngàn, "hạn
khuống" luôn là nơi để nam thanh, nữ tú hẹn hò và gặp gỡ. Con gái se
sợi, thêu thùa, con trai đan lát, đánh đàn "tính tẩu".
Vâng,
dệt, thêu thổ cẩm không giản đơn chỉ để làm ra sản phẩm. Mất nghề này là
mất đi một phần hồn cốt văn hoá đã ăn sâu vào nếp sinh hoạt của người
dân miền núi vốn quen sống thật thà, chất phác, hồn nhiên. Thổ cẩm, loài
hoa hiện ra từ trên khung cửi, để cho ta cúi nhìn và đọc những bức
thông điệp bằng hình ảnh, để tâm tưởng ta chẳng thể dửng dưng trước "thế
giới" thổ cẩm tĩnh lặng, không lời nhưng nói lên rất nhiều điều.
8. Vải cung đình Huế([You must be registered and logged in to see this link.])Người
thợ phải tự nhuộm chỉ bằng màu tự chọn với những sắc độ theo yêu cầu
của đề tài. Tòan bộ chỉ trong ngành thêu cổ truyền ở Huế đều bằng tơ
tằm. Vùng chợ Cống ở Huế chuyên sản xuất các lọai chỉ cho ngành thêu,
chỉ tơ mảnh, sợi mướt nhiều xơ, bằng phương thức thủ công, người ta xe
lại lớn hay nhỏ tùy theo kỹ thuật xe đôi, xe ba, xe tư hay xe sáu! Chỉ
thêu được làm bằng các lọai tơ nỏn bóng, mịn. Độ bóng của chỉ góp phần
quan trọng trong việc tạo độ đậm nhạt, tối sáng của bức thêu.
Để
có chỉ thêu tốt, ngòai việc mua một số phẩm nhuộm của Trung Quốc, người
thợ thêu Huế còn tự nhuộm theo công thức riêng với màu sắc khai thác
trong thiên nhiên như củ nâu, cây chàm, vỏ bàng, nước điệp, lá vông, đá
mài, hoa hòe... Có khi để có một màu mới, người thợ nhúng chỉ phủ lên
hai màu khác nhau. Chẳng hạn như để có chỉ đen chàm, người ta nhuộm màu
lục rồi phủ lên đó màu đỏ. Để có màu lục da chai là sự phối hợp hai lần
nhuộm trên màu lục và nước đen chàm lõang. Màu đỏ tươi được nhuộm từ
việc dùng chỉ cánh sen nhúng thêm lần nữa vào nước nhuộm đều.
Khi
chỉ thêu đã ổn định, người thợ lại nhúng nó vào nước chanh chua để giữ
bền màu. Trung bình mỗi màu chỉ có 5 gam đậm nhạt. Có trường hợp trên
một con chỉ, người ta nhúng vào nước nhuộm theo tính toán mà người thợ
đã hình dung cho từng mảng màu muốn thể hiện.
9-Dệt thổ cẩm- Người Ba na([You must be registered and logged in to see this link.])Đã
có thời kỳ tại 2 xã vùng cao Đăk Mang và Bok Tới (Hoài Ân) nghề dệt thổ
cẩm của người Ba na phát triển rất mạnh. Họ đã dệt nên những tấm chăn,
thảm vải, những bộ trang phục trong cuộc sống thường ngày cũng như trong
lễ hội mang những nét đặc trưng riêng của người Ba na. Tiếc thay, nghề
này hiện đang dần mai một.
* Nét đẹp thổ cẩm
Đã có thời kỳ
tại 2 xã vùng cao Đăk Mang và Bok Tới (Hoài Ân) nghề dệt thổ cẩm của
người Ba na phát triển rất mạnh. Họ đã dệt nên những tấm chăn, thảm vải,
những bộ trang phục trong cuộc sống thường ngày cũng như trong lễ hội
mang những nét đặc trưng riêng của người Ba na. Hiện nay, cách nhuộm vải
của người Ba na ở đây cũng giống như người Ba na Tây Nguyên: nhuộm bằng
màu mực của các loại cây rừng, sắc màu thường là đỏ, nền đen. Những
đường nét màu sắc hoa văn thể hiện trên trang phục đều mang ý nghĩa khác
nhau theo quan niệm của người Ba na. Màu đen được nhuộm bằng lá cây
cham, cây mô, thường là màu nền của mỗi tấm vải, biểu hiện cho đất đai,
cho sự nảy mầm từ mặt đất, độ che phủ của cây rừng mà suốt cả cuộc đời
con người phải gắn chặt với nó kể cả khi họ đã trút hơi thở cuối cùng.
Màu đỏ biểu hiện cho màu của lửa, của máu, tượng trưng cho sức sống, sự
vươn lên, niềm đam mê, tình yêu và khát vọng, được nhuộm bằng nhựa cây
Kxang, Kơ bai. Màu vàng biểu hiện cho ánh sáng mặt trời, sự kết hợp hài
hòa giữa con người và tự nhiên, được nhuộm bằng củ nghệ hay màu của cây
Kmếch. Màu xanh biểu hiện cho màu da trời, màu của cây lá được nhuộm
bằng nhựa cây truông nhây, cây Kpai…
Ngày nay đồng bào Ba na đã
chọn cây bông, cây lanh trồng trên rẫy để lấy sợi vải thay cho những vỏ
cây rừng trước kia. Để dệt nên 1 tấm vải, người Ba na đã tạo ra 1 khung
dệt thủ công đơn giản bằng cây. Tuy dụng cụ dệt vải đơn giản là vậy
nhưng qua sự khéo léo của các cô gái miền sơn cước thảm vải được dệt
xong trông thật đẹp mắt vì các hoa văn rõ nét nổi bật lên trên nền vải
với những sợi dọc sợi ngang đan vào nhau thật sắc sảo.
Việc dệt
được một tấm vải là cả một quá trình. Váy, áo... dệt mất từ 30-35 ngày
và có thể còn lâu hơn tùy thuộc vào số lượng hoa văn trên vải nhiều hay
ít và người dệt có khéo tay hay không. Mí Ý, 74 tuổi, người phụ nữ dệt
vải lớn tuổi nhất của xã Bok Tới cho chúng tôi biết: Giống như các dân
tộc Ba na Tây Nguyên, bất cứ một cô gái nào lớn lên từ 12-13 tuổi cũng
đều được bà mẹ chỉ cho cách dệt vải và đến trước khi bắt chồng, cô gái
phải tự dệt cho mình một bộ y phục thật đẹp để ra mắt mọi người và để
dệt bộ y phục này họ phải tốn rất nhiều tâm huyết… Trong quá trình dệt
thì bắt hoa văn là khó nhất, phải làm tỉ mỉ, khéo léo mới đẹp. Hoa văn
làm nhanh nhất là 1 tuần. Vào ngày lễ hội truyền thống của dân làng, cô
gái nào có bộ váy áo đẹp sặc sỡ thì được đánh giá là người chăm chỉ,
giỏi giang; nếu là con gái chưa chồng thì được trai làng để ý đến. Hòa
cùng âm điệu của tiếng cồng chiêng và hương men những ché rượu cần,
những bộ trang phục được làm từ hàng thổ cẩm đã thật sự làm nên nét đẹp
văn hóa riêng của người miền núi nói chung và người Ba na nói riêng.
* Cảnh báo về sự mai một
Tiếc
thay, theo số liệu điều tra mới đây, ở 2 xã Đăk Mang và Bok Tới, hiện
nay chỉ còn 20 hộ còn khung vải, dụng cụ. Ông Đinh Xuân Á – Chủ tịch
UBND xã Bok Tới, cho biết: Hiện nay nghề dệt thổ cẩm đã giảm nhiều công
đoạn, người Ba na không còn trồng bông, se sợi nhuộm màu như trước nữa
mà chỉ việc mua từ dưới xuôi lên, nhưng việc dệt vải không còn thường
xuyên, sản phẩm làm ra chỉ đáp ứng nhu cầu cần thiết của gia đình. Số
người biết dệt vải ngày càng hiếm, hầu hết ở tuổi từ 35-40 trở lên… Đây
chính là dấu hiệu cảnh báo sự mai một của một nghề truyền thống của đồng
bào dân tộc. Theo lời những nghệ nhân khéo tay thì sự mai một của nghề
dệt thổ cẩm là do sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, thời gian hoàn
thành sản phẩm lại rất lâu không phù hợp với nhu cầu đời sống hiện tại.
Trước đây vải để làm thổ cẩm là bông thì bây giờ mua chỉ của người Kinh
dưới xuôi, học trò mới cũng ít, vật liệu mua của người Kinh lại không
đảm bảo chắc chắn để dệt. Bên cạnh đó, điều kiện giao lưu giữa miền núi
và miền xuôi không còn khó khăn như ngày trước, hàng may mặc sẵn lại rẻ
tiền, phù hợp với nhu cầu thị hiếu của lớp trẻ vùng cao, đồng thời sự
hòa nhập với lối sống của người Kinh khiến cho lớp trẻ không còn muốn
mặc trang phục truyền thống nữa…
Anh Võ Chí Hà, cán bộ của Trung
tâm VHTT huyện Hoài Ân cho biết: “Để gìn giữ và phát huy nghề dệt thổ
cẩm, Trung tâm VHTT huyện đã đề nghị tổ chức lễ hội văn hóa cho đồng bào
dân tộc của địa phương. Nghề dệt thổ cẩm được tổ chức thi 2 năm một lần
thực hiện trong 4 năm trở lại đây ở các cấp Hội phụ nữ. Mới đây, huyện
tổ chức thi văn hóa dân tộc miền núi có phần thi trang phục truyền thống
để giữ nghề. Dù vậy cũng chỉ là níu kéo để nghề không bị mai một theo
thời gian, chứ thực tế hướng mở cho nghề này không mấy sáng sủa”.
Bảo
tồn những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc là một việc
làm cần thiết. Theo chúng tôi, để nghề dệt thổ cẩm không bị mai một
trước hết cần có quy định cho đồng bào dân tộc phát huy việc mặc trang
phục truyền thống trong các ngày lễ hội, đồng thời thường xuyên tổ chức
các hoạt động truyền thống cho họ. Đối với các trường nội trú, trường
phổ thông có học sinh người dân tộc nên khuyến khích họ mặc y phục
truyền thống của dân tộc mình. Chỉ có vậy mới mong giữ được nghề dệt thổ
cẩm trong một bộ phận người Ba na.
10- Điều nhuộm (Wikipedia.com)Điều
nhuộm hay còn gọi là điều màu, cà ri (danh pháp khoa học: Bixa
orellana) là một loài cây bụi hay cây gỗ nhỏ thuộc họ Điều nhuộm
(Bixaceae), có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới của châu Mỹ. Trong tiếng
Nahuatl tên gọi của nó là achiotl, nghĩa là cây bụi. Trong tiếng Tupi
tên gọi của nó là urucu. Nó được trồng tại khu vực này và tại khu vực
Đông Nam Á, do người Tây Ban Nha đưa tới đây trong thế kỷ 17. Nó là
nguồn cung cấp chính cho một loại chất màu tự nhiên, gọi là annatto có
màu vàng đỏ, sản xuất từ quả. Điều nhuộm có hoa màu hồng và quả có gai
màu đỏ tươi, chứa các hạt màu đỏ. Quả khô và cứng thành dạng quả nang
màu nâu.
Quả không ăn được nhưng được thu hoạch để lấy hạt, trong
đó có chứa chất bixin, thành phần chính của annatto. Nó có thể được
chiết ra bằng cách ngâm hạt vào trong nước. Nó được dùng để tạo màu thực
phẩm, chẳng hạn như bơ, cá và dầu ăn. Nó cũng là thành phần chính trong
một loại gia vị kiểu Mexico gọi là recado rojo, tức "bột điều nhuộm
nhão". Hạt điều nhuộm được sử dụng làm phụ gia màu gần như không vị
trong ẩm thực châu Mỹ La tinh, Jamaica và Philipines.
Miêu tảCây
cao 5-10 m, dạng bụi. Lá đơn mềm, nhẵn, hình ba cạnh, đầu nhọn. Hoa
tương đối lớn, có màu tía hay trắng, mọc thành chùy ngắn ở đầu cành. Quả
mọc chùm, hình tim, đỏ tươi đến nâu khô khi chín, trên mặt có gai mềm,
mở bằng hai van, mỗi mảnh mang chứa nhiều hạt. Hạt hơi có dạng lập
phương trên một cuống ngắn, xung quanh tẽ nở thành áo hạt ngắn màu đỏ.
Thành phần hóa họcQuả chứa nhiều vitamin A (khoảng 3,2 g cho mỗi 100 g quả), ngoài ra còn có nhiều selenium, magiê, canxi.
Sử dụngLàm màu nhuộm
Tại
Đông Nam Á, người ta thu hái hạt để làm chất nhuộm màu, chính vì thế mà
loài này có tên gọi điều nhuộm. Hạt điều nhuộm đã được thổ dân châu Mỹ
sử dụng từ rất lâu để làm thuốc màu vẽ lên cơ thể, đặc biệt là môi, vì
thế mà đôi khi nó còn được gọi tại khu vực này như là "cây son môi".
Điều nhuộm còn được dùng làm chất nhuộm màu thực phẩm (mã châu Âu
E160b).
11- Mặc nưa- (Nhuộm Lãnh Mỹ A)
(Wikipedia.com)
Mặc
nưa, danh pháp khoa học: Diospyros mollis là một loài cây mộc cỡ trung
bình thuộc chi Thị. Mặc nưa phổ biến ở miền Nam Việt Nam, Campuchia,
Lào, Thái Lan và Myanma.
Miêu tảLá mặc nưa khá dầy, nhẵn mặt, nhọn mũi, dài khoảng 5-12 cm. Sắc hoa vàng nhạt. Hoa đực mọc thành chùm 1-3 bông. Hoa cái mọc đơn.
Trái mặc nưa hình cầu, màu xanh, khoảng 1-2 cm đường kính. Mỗi trái chỉ có một hột.
Sử dụngTrái mặc nưa có nhiều tannin, theo công nghệ cổ truyền thì dùng để nhuộm vải màu đen.
Brewing tannic acid
Synonym: Tannin, Gallotannic acid
Molecular formula and weight: C76H52O46 = 1701.18
CAS registry number: 1401-55-4
HS Code: 32019090
1. Specifications:
Appearance: Ivory, no odour
Ignition residue, %: <=1
Tannic acid content %: >=96.0
Gum and dextrin experiment: Negative
As mg/kg: <=3
Chroma: <=1.0
Heavy metal(Pb) mg/kg: <=20
Loss on drying %: <=10
2.
Characteristic: A natural stabilizing agent of beer, it can rapidly
react with acidic protein and protein polyphenols to obtain
precipitation, and removed at the later of fermentation or during the
filtration of beer. It can obviously improve the colloid stability and
flavor stability of beer.
3. Dosage and usage
(1) Recommended: 20-40ppm.
(2)
Usage: It is added at the later of fermentation to spill from jar or
during the filtration of beer, concretely depending on the seethe degree
of barley juice, suspending yeast cell counts in ferment-ation
solution, the quantity of fermentation solution and the shape of
fermentation jar, and etc. Dosage and usage will be confirmed by
experiment finally.
(3) Usage:25% tannin solution is compounded
with deoxidized wateror distilled water at room tem-perature Before
added, diluted to 1-5% again. Added by quantitative added pump,
uniformity degree of solution can reach above 80%.
4. Time of
precipitation: The reaction rate of tannin with protein is very fast,
time of precipitation depends on its temperature of fermentation
solution. Counts of suspending yeast cell and specification of
container. It takes 2-4 days to precipitate if added in the later of
fermentation solution. It takes notless than 10 minutes to contact
during the filtration if it is added on the filter pipeline and takes
about20 minutes to precipitate in buffer jar.
5. Five major functions of ChunYuan brewing tannin:
(1)
Adsorb selectively and deposit macromolecule basic hydrophobic and
sensitive proteins containing sulfur. These unstable macromolecule
proteins are the very reason why the beer flavor and colloid are
unstable.
(2) Combine with different kinds of metal ions to form
depositions. Can remove harmful metal ions in beers, especially Fu++,
Cu++, Ni+, which can enhanced oxidation of beers.
(3) Condense with
different aldehydes in beers in acid conditions; reduce content of
aldehydes having side-effects on beer flavor and increase stability of
beer flavor.
(4) As natural anti-oxidant and remover of oxygen free
radicals, contain large quantity of phenol hydrocarbyls, easily be
oxidized and have high reduction. Reduce activity of oxygen with high
activity; remove various kinds of oxygen free radicals, cut oxidation
reaction chain of free radicals and stop oxidation reaction. Therefore,
protect beer from being oxidized.
(5) Have the effect of inhibiting
activity of enzyme and restraining bacteria. By combining with enzyme
protein, destroy function group of enzyme and make them inactive. And
complex with Ca++, Mg++, Mn++----- catalyst of enzyme, thus inhibit
enzyme. Can inhibit bacteria to minimum 12-100ppm, and yeast to
25000-125000ppm. As far as present dosage is concerned, tannin has
certain inhibition to bacteria and has no effect on yeast.
6. Packaging : 25KG/drum.
Phát triển sản phẩm dệt may sinh thái - giải pháp giúp ngành dệt may Nhật Bản tồn tạiThời
trang sinh thái (Eco-fashion) không chỉ là một khái niệm được nhiều
người quan tâm, mà hiện nay nó còn cung cấp một công cụ kinh tế hữu hiệu
cho các hãng dệt may Nhật Bản.
Các sản phẩm mới thân thiện với
môi trường được làm từ một loạt các chất liệu bảo vệ môi trường từ
cotton tái sinh cho đến sợi cashmere được nhuộm theo phương pháp hữu cơ
hay như sự đổi mới vượt bậc trong chu trình sử lý để tạo ra các sản phẩm
len có độ đàn hồi cao mà không sử dụng hóa chất. Tất cả những thành tựu
này đều được trưng bày tại hội chợ thương mại ngành dệt may tổ chức tại
Pari để giới thiệu các mẫu thiết kế hàng đầu của hàng thời trang thế
giới.
Những công ty dệt may Nhật Bản có thể sống sót và cạnh
tranh trên thị trường nhờ phát hiện ra những sản phẩm mới này vì gần như
các hãng sản xuất hàng dệt may giá rẻ của Nhật đã phải đóng cửa do
không thể cạnh tranh với Trung Quốc.
Giới nghiên cứu cho rằng thị
trường dệt may thân thiện với môi trường đang nổi lên như một lĩnh vực
mới để các công ty Nhật Bản đón đầu và phát triển.
Fujitex, công
ty hiện đã có uy tín trên thị trường cao cấp cũng thiết lập một danh mục
các sản phẩm sợi cashmere được nhuộm bằng loại thuốc nhuộm chiết xuất
từ thực vật như cây lựu, cây keo và cây đinh hương.
Đại diện công
ty cho biết họ đang nổ lực để triển khai sử dụng các lọai thuốc nhuộm
tự nhiên thay cho thuốc nhuộm hóa học dựa trên cơ sở xem xét các vấn đề
môi trường, một vấn đề nóng hiện nay được cả thế giới quan tâm.
Các
sản phẩm dệt may Tarui cũng đựơc chuyển thành tên gọi “eco.wash” vì
công ty đã sử dụng chất liệu sử lý thân thiện với môi trường vào loại
bậc nhất thế giới để hạn chế sự giãn của len khi tiếp xúc trực tiếp với
nước.
Theo đó , hãng đã sử dụng ozone, một chất liệu tự nhiên
thay về chlorine hóa học vốn là chất gây ô nhiễm môi trường. Vì ozone
sau khi thải ra sẽ quay lại tự nhiên và chuyển thành oxi. Ozone cũng là
chất gây thổ ráp cho sợi, mang lại cảm giác mềm mại hơn.
Cùng với
việc sử dụng 100% chất liệu cotton tái sinh cho chất liệu vải bông xù
dùng để sản xuất khăn mặt, hàng dệt kim, các chuyên gia Minami đã phát
hiện ra một cách mới để thu gom chất thải thải ra trong quá trình sản
xuất loại áo khoác da lông chồn. Theo đó, trong quá trình dệt sẽ bổ sung
thêm chất mềm, bên cạnh lông vốn thừơng bị bỏ đi, cùng với cotton hữu
cơ để tạo ra những sản phẩm dệt may cao cấp riêng lẻ không trực tiếp gây
sự chú ý của các cơ quan môi trường về bảo vệ các loại lông thú.
Miyashin
cũng đang tiến hành thử nghiệm bổ sung tre và giấy truyền thống của
Nhật vào chất liệu lụa. Sợi sản xuất được theo công thức này có vẻ nặng
hơn nhưng trên thực tế có độ sáng bống không ngờ tới, đôi khi tạo ra
được những sản phẩm có màu da quả đào rất bắt mắt.
Trong khi đó,
công ty Takahashi lại phát hiện ra một công dụng mới cho loại cotton sử
dụng rất lâu dài để sản xuất quần áo khoác cho các vận động viên judo và
sợi để sản xuất vải bọc ghế sofa.
Đại diện ngành dệt may Nhật
Bản khẳng định chìa khóa của sự thành công là sự đổi mới, các công ty
không ngừng tìm tòi và sản xuất ra các chất liệu mới để tồn tại và đứng
vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay.(Theo TT
Thương Mại)